Hơn nữa, hai năm nay xưởng trà Nam Sơn ngày càng phát triển, còn mở rộng quy mô hoạt động và vườn trà không ít, lợi nhuận thu về đạt đến tầm cao mới, nhưng chất lượng trà lại kém hơn trước.
Chưa kể ngoài tỉnh, ngay cả trong tỉnh, trong mắt người uống trà, trà núi Mạnh Đỉnh chỉ là đặc sản địa phương, chẳng thể nói là cao cấp hay không.
Sáng hôm sau, Trương Huệ và Chu Diệp lên núi hái trà. Chu Diệp nói: “Không chỉ vậy, lãnh đạo công xã dưới chân núi còn muốn sáp nhập trà quán của chúng ta với xưởng trà Nam Sơn đấy.”
“Chắc chắn chưa ạ?”
“Vẫn chưa đâu. Trước đây, xưởng trà Nam Sơn rất coi trọng kỹ thuật làm trà của chú Minh Sơn. Nhưng giờ bọn họ chỉ quan tâm đến việc tăng sản lượng và mở rộng sản xuất, không màng đến vấn đề kỹ thuật nữa.
Năm ngoái, xưởng trà Nam Sơn lại xây thêm một khu tập thể, tất cả công nhân trong xưởng đều được ở nhà lầu khang trang, nghe nói vẫn còn nhà trống. Hiện tại bọn họ làm ăn rất phát đạt, nên có vẻ không vừa mắt với bên mình, còn chê chúng ta xa xôi, khó quản lý.
Xưởng trà Nam Sơn còn nói, nếu năm nay kết quả kinh doanh tốt thì năm sau bọn họ sẽ làm đường xi măng từ xưởng đến thẳng công xã.”
“Lợi hại đến thế cơ ạ?”
“Ừ, lãnh đạo công xã hoàn toàn ủng hộ họ luôn.”
Giọng điệu Chu Diệp không rõ là ghen ghét hay ghen tị: “Hiện tại, xưởng trà Nam Sơn chính là bộ mặt của công xã chúng ta. Mọi chính sách ưu đãi đều được ưu tiên cho bên đó hết.”
Đợt về đây, Trương Huệ cũng cảm nhận được thế hệ trẻ ở thôn Chu Gia không còn cam chịu nữa. Nhưng với sự hỗ trợ của lớp người đi trước và truyền thống gia tộc bền vững, dù có suy nghĩ gì thì cũng không ảnh hưởng đến công việc hái trà của họ.
Trương Huệ từng ra nước ngoài, cũng từng đặt chân đến các thành phố ven biển phía Nam, nên trong khoảng thời gian cô ở thôn Chu Gia này, không ít người trẻ tuổi tìm đến trò chuyện với cô.
Họ chủ yếu hỏi thăm chuyện bên ngoài núi. Nghe nói công nhân ven biển kiếm được một hai trăm tệ mỗi tháng, bằng lương cả nửa năm ở trên núi, điều đó có thật không?
Họ còn nghe nói ven biển rất dễ kiếm tiền, mở quán ven đường bán trứng luộc trà cũng có thể phát tài.
Những chuyện họ hỏi, Trương Huệ biết thì sẽ nói tường tận, không biết thì thành thật bảo không biết. Nói xong, Trương Huệ khéo léo khuyên họ nên chuyên tâm quản lý trà quán, nghiên cứu kỹ thuật thật tốt, kiểu gì cũng sẽ có con đường phát triển.
Chẳng rõ bọn họ có tin hay không, nhưng mỗi lần nhắc đến trà quán, bọn họ đều chỉ cười xòa cho qua chuyện.
Từ Vĩnh bất lực nói với Trương Huệ: “Lãnh đạo cấp trên chê xưởng trà của chúng ta quy mô nhỏ, hiệu quả và lợi ích không bằng xưởng trà Nam Sơn, hai năm nay đều tỏ thái độ hờ hững với chúng ta, không tăng tiền lương nên ai ai cũng đều muốn đi ra ngoài, không thể ở lại thôn được nữa rồi.”
Trương Huệ nghĩ, cứ đợi thêm một chút đi, đợi vài năm nữa có thể chuyển sang chế độ tư hữu hóa, khi đó sẽ có nhiều cơ hội để làm ăn, phát triển hơn.
Trương Huệ cứ tưởng việc chuyển đổi từ công sang tư phải đợi đến sau năm 1990. Không ngờ một năm sau, tức năm 1986, cô đã nghe Chu Văn Phong nói chính sách ấy đã được phép rồi.
Lý do chuyển từ công sang tư khiến người dân thôn Chu Gia vô cùng tức giận.
Năm ngoái, xưởng trà Nam Sơn bắt đầu cấp kinh phí xây dựng đường xi măng, sửa đến năm nay vẫn còn thiếu mấy cây số nữa mới tới thị trấn. Xưởng trà Nam Sơn muốn xin công xã tạm ứng tiền để tự sửa chữa nốt.
Tất nhiên lãnh đạo công xã rất muốn có thành tích này, nhưng công xã thực sự không thể gom góp đủ nhiều tiền như vậy.
Rồi một chính sách mới ra đời, văn bản nói rằng các xí nghiệp nhỏ thuộc sở hữu toàn dân có thể thực hiện cho thuê, hợp đồng và các phương pháp khác để cải cách sâu rộng hơn, từ đó tăng cường sức sống cho xí nghiệp.
Chính sách này được truyền xuống từng tầng từng lớp, cuối cùng các xí nghiệp nhỏ do thôn điều hành như thôn Chu Gia đã có thể tự bỏ vốn mua lại quyền sở hữu.
Dù sao thì cũng được phép góp vốn vào xí nghiệp, các xí nghiệp nhỏ do thôn quản lý có thể hoạt động linh hoạt hơn, cũng chẳng ai kiểm tra gắt gao.
---