Mẫu thân vất vả hầu hạ để phụ thân nằm xuống, sợ ông bị nhiễm lạnh, lại đi nấu bát canh gừng.
Khi bà bưng canh đến cửa phòng, phụ thân đang mê sảng:
“Tình nhi… trách ta … chưa thể cho nàng một mái nhà…”
Lư Tình Yên vẫn ngồi bên giường, cứ như thể từ đầu tới cuối, nàng chính là người chăm sóc ông vậy.
Nàng dường như cũng xúc động, chẳng màng ta và Tú Tú có mặt, nắm lấy tay phụ thân, nghẹn ngào:
“Đào lang, bây giờ chàng đã cho thiếp một mái nhà rồi. Không có chàng, mẹ con thiếp biết phải làm sao?”
Phụ thân nghe vậy, tỉnh táo hơn đôi chút, đưa tay kia khẽ lau nước mắt cho nàng:
“Ta biết mà… nàng nhất định sẽ ở bên ta, Tình nhi…”
Ta nhìn sang mẫu thân đang đứng sững ngoài cửa.
Bát canh gừng trên tay bà đã nguội lạnh, e rằng trái tim bà cũng đã nguội lạnh theo.
Bà không nói gì, ôm bát canh trở về phòng mình.
Nhưng như vậy vẫn chưa đủ.
Chỉ đủ để mẫu thân hết hy vọng, nhưng chưa đủ để bà thật sự quyết tâm rời bỏ.
Cái nhà chỉ biết hút m.á.u này, vốn không đáng để bà lưu luyến.
Tới tiết Trùng Dương, ta lên núi hái thù du, mỗi người một chùm đeo bên mình.
Khi đi tới trước mặt Lư Tình Yên, ta định đưa cho nàng, nhưng bàn tay khựng lại, đưa mắt nhìn nàng rồi nói:
“Tình di vẫn còn trẻ, mặc cả bộ xám xịt già nua thế này … đúng là phí hoài một giai nhân.”
Hôm ấy là ngày cả nhà đoàn tụ cúng tổ tiên, mẫu thân dường như có linh cảm gì, bèn mặc chiếc váy lụa xanh mà phụ thân đã tặng.
Hai người ngồi cạnh nhau ở bàn ăn, thoáng nhìn tựa như quay lại những ngày xưa cũ.
Nhưng những ngày xưa ấy — là phụ thân đã lừa dối mẫu thân.
Điều bà tưởng là hai trái tim thật sự rung động, thực ra chỉ là ông mượn hình bóng bà để nhớ thương một nữ nhân khác.
Ta nén nỗi xót xa, nở một nụ cười chua chát, trêu ghẹo mẫu thân:
“Mẫu thân tuổi đã xế chiều, mặc váy xanh lại càng lộ nước da sạm; Tình di da trắng, dung nhan diễm lệ, chi bằng để Tình di mặc thì hơn.”
Mẫu thân thoáng hiện vẻ ấm ức quen thuộc.
Bà cúi mắt nhìn sang phụ thân:
“Khi ta và chàng mới gặp nhau, chàng từng nói ta mặc váy xanh rất đẹp.”
Ta lắc đầu:
“Không phải mẫu thân đẹp, mà là phụ thân thích nhìn người mặc váy xanh.”
Phụ thân từ đầu vẫn im lặng, nghe ta nói vậy liền đột ngột ngẩng lên, quát:
“Đào Nguyệt Lâu! Ăn không nói, ngủ không nói, còn lắm mồm nữa thì ra ngoài quỳ cho ta!”
Ta liền buộc chùm thù du cuối cùng vào bên hông Lư Tình Yên, vẫn giữ nguyên nụ cười:
“Trong tập tranh của phụ thân, Tình di mặc váy lụa xanh mới thật sự là đẹp. Tình di, có phải vậy không?”
Lư Tình Yên cũng khựng lại, quay đầu nhìn phụ thân hỏi:
“Đào lang, chẳng phải chàng đã sớm phong bút, không còn vẽ tranh nữa sao?”
Ta thay phụ thân đáp lời:
“Người muốn vẽ, đã vẽ rồi; không vẽ nữa cũng chẳng hề gì.”
Phụ thân nổi giận, bật dậy, rút chiếc ghế dài đang ngồi, giáng thẳng xuống đầu ta.
Mẫu thân thuở trước theo tiêu cục trong nhà học võ, phản ứng cực nhanh, kịp thời chặn lấy chiếc ghế.
Nếu không, với lực ấy giáng xuống, chắc chắn ta đã vỡ đầu.
Ta không nhịn được mà bật cười:
“Phụ thân, con chỉ nhắc lại việc người đã làm, lặp lại lời người đã nói, sao người lại tức giận đến thế?”
Phụ thân định lao lên đánh ta, nhưng mẫu thân đã nhanh chân tiến tới, chắn trước mặt, ôm chặt lấy ta.
Cái tát ấy của ông bị bà bắt gọn cổ tay, bẻ ngược trở lại.
Đây là lần đầu tiên ta thấy mẫu thân tức giận, đôi mày lạnh lẽo, ánh mắt quét qua chúng ta như nhìn kẻ xa lạ.
Cuối cùng, bà dừng ánh nhìn trên người phụ thân, từng chữ một, hỏi:
“Người trong bức họa ấy, rốt cuộc là ta … hay là Lư Tình Yên?”
Lư Tình Yên chưa từng nhìn qua tập tranh kia, nhưng cũng đoán được tám, chín phần, liền tiến lên an ủi:
“Ngày lành Trùng Dương, sao Chu tỷ lại tức giận như vậy? Chu tỷ cũng biết, ta và Đào lang từ thuở thanh mai trúc mã, chàng vẫn luôn cưng chiều ta—”
“Chát!”
Mẫu thân có luyện võ, lực tay mạnh mẽ, một cái tát liền quật ngã Lư Tình Yên xuống bàn.
Bát dĩa trên bàn bị hất đổ xuống đất, vang lên một tràng chói tai.
Phụ thân hoảng hốt, chạy tới che chở Lư Tình Yên, định mở miệng chất vấn, nhưng bị mẫu thân cắt lời:
“Chỉ là một đôi gian phu dâm phụ, cần gì viện cớ thanh mai trúc mã, thật là làm bẩn một câu hay!”
Hôm ấy, mẫu thân ép phụ thân viết giấy hòa ly.
Phụ thân nhìn ta một cái, lại liếc sang mẹ con Lư Tình Yên đang sụt sùi khóc lóc.
Sợ ông đổi ý, ta liền nói ngay:
“Hòa ly thì hòa ly! Theo con thấy, Tình di mới xứng làm chủ mẫu nhà ta, thay mẫu thân nuôi con!”
Phụ thân lập tức ký tên, làm hai bản — một bản tự giữ, một bản ném cho mẫu thân.
Bao năm chấp niệm, phút chốc tan thành mây khói, mắt mẫu thân ươn ướt, ngấn lệ nhưng chẳng hề vương vấn.
Bà ôm tờ hòa ly, nhìn đi nhìn lại, cuối cùng nở nụ cười nhẹ nhõm:
“Thì ra … vốn chẳng phải ta. Vốn dĩ… chưa từng là ta.”
Mẫu thân quay người rời đi, thu dọn hành trang, giữa đêm gọi xe lừa, lập tức rời khỏi.
Ta vẫn lắng nghe từng tiếng động, đến canh ba, nhân lúc mẹ con Lư Tình Yên đã ngủ say, ta trèo qua tường sau, chạy theo mẫu thân.
Tựa như ông trời cũng giúp bà thoát đi — Bầu trời u ám suốt nửa tháng bỗng quang đãng, ánh trăng trải khắp con đường lớn, soi sáng lối bà bước.
Ta men theo đường tắt, chặn bà ở đầu hẻm:
“Mẫu thân! Mẫu thân!”
Ta bám lấy đuôi xe, để bánh xe kéo ta chạy một đoạn.
Mẫu thân cuối cùng cũng không nỡ, bảo phu xe dừng lại.
Ta không muốn bà vì ta mà phải nhẫn nhục ở lại nhà họ Đào, làm quản gia cho đôi gian phu dâm phụ kia, nên suốt những ngày qua mới bày ra cục diện này, khiến bà hoàn toàn nguội lạnh, dứt khoát đi tìm cuộc sống mới của mình.
Bây giờ chưa phải lúc nói ra sự thật.
Sau này ta nhất định sẽ đi tìm bà — nhưng là khi ta đã tự kiếm được tiền, không còn là gánh nặng của bà nữa.
Ta chỉ muốn được nhìn bà một lần cuối.
Ta khẽ nắm lấy tay bà.
Quả nhiên, bà vẫn giận ta, rút tay lại, lạnh lùng nói:
“Ta đã hòa ly với phụ thân ngươi rồi, còn gọi ta là mẫu thân làm gì?”