Nay Trịnh đại nương đã nói vậy, ta cũng không thể hoàn toàn phụ tấm lòng bà, bèn đưa cho bà một phần tiền.
Nào ngờ, bà lại lấy từ trong n.g.ự.c ra một chiếc trâm bạch ngọc — chính là tín vật đính ước năm xưa phụ thân tặng mẫu thân, dù những ngày khốn khó nhất, bà cũng chưa từng nỡ đem cầm.
Trịnh đại nương nói:
“Nguyệt Lâu, đây là mẫu thân con trước khi đi đã gửi lại cho ta, bảo ta đem cầm lấy chút tiền để bù đắp chi tiêu.”
Bà còn bảo, dẫu lúc rời đi mẫu thân tức giận đến thế, vẫn chẳng thể buông bỏ con.
Bà để lại vật quý nhất trên người, chỉ mong Trịnh đại nương có thể chăm chút cho ta.
Sống mũi cay xè, nước mắt đã dâng đầy khóe mắt.
May thay khi ấy ta không đi theo bà, nếu mới trở lại kinh thành mà ta còn bám lấy bà, chẳng biết bà sẽ phải chịu thêm bao nhiêu ấm ức.
Dù là một năm, hai năm hay ba năm, ít nhất trước khi ta tìm lại được bà, hãy để bà được sống vì chính mình.
Để bà làm lại Chu Liễn Nhi tung vó khắp giang hồ năm xưa.
Ta nắm lấy tay Trịnh đại nương, chân thành nói:
“Đại nương, con tin người, hôm nay con sẽ nói thật một câu. Con muốn dành dụm tiền là để sau này lên kinh thành tìm mẫu thân. Con không cần người chu cấp gì cả, chỉ là số tiền này với con vô cùng quan trọng, xin người giữ thật kỹ, tuyệt đối đừng để phụ thân và Lư thị lấy mất.”
Trịnh đại nương liên tục bảo đảm, rồi nhìn trước ngó sau, lặng lẽ rời đi.
Lư Tình Yên thì lúc nào cũng để mắt tới ta, Trịnh đại nương vừa đi khỏi, nàng đã lập tức tới gây chuyện.
Nhưng ta giả vờ lơ đễnh, bụng dạ cũng chẳng kém gì nàng, nên nàng chẳng bắt được nhược điểm nào của ta.
Nàng thật là vừa xấu vừa dại.
Xấu ở chỗ luôn tìm cách hãm hại kẻ vô tội, dại ở chỗ chỉ biết chạy đi mách phụ thân.
Đợi tới khi trong nhà ăn hết số lương thực và tiền bạc mẫu thân tích cóp để lại, ta muốn xem thử, cái gã Đào lang mà nàng một mực “ không rời không bỏ” ấy, rốt cuộc có chịu cùng nàng sống c.h.ế.t hay không.
…
Đầu tháng Năm, kinh thành phái người tới tu sửa kênh dẫn nước.
Ta theo Trịnh đại nương chạy ra bờ đê, muốn xem náo nhiệt.
Từ sau khi mẫu thân rời đi, nếu muốn được ăn cơm mà không bị đánh, ta buộc phải đi gánh nước.
Trước kia ba người dùng, ba ngày mới phải đi một chuyến, nay thành bốn người, lại thêm Lư Tình Yên ưa chải chuốt, mỗi ngày chỉ riêng rửa mặt chải đầu đã dùng hết một thùng.
Không còn cách nào, ta phải gánh nước mỗi ngày, vai bị đòn gánh chà đến rách cả da.
Nếu kênh dẫn nước được sửa xong, chỗ lấy nước gần hơn, ta cũng bớt khổ phần nào.
Nào ngờ, còn chưa lên tới bờ đê, từ xa ta đã nhận ra người thanh niên mặc quan phục màu xanh khói đứng đầu đội.
Giọng hắn vang vọng, đọc mấy câu chúc rồi cho khởi công đào kênh.
Chờ hắn lui xuống, ta vòng ra phía sau, gõ mạnh vào vai hắn.
Mấy thị vệ lập tức giữ chặt ta, nhưng khi ta đối diện với đôi mắt sáng ấy, liền vội vàng cầu xin:
“Lục Quân Nghiêu, là ta đây! Đào Nguyệt Lâu — người từng ăn vụng thịt kho nhà huynh khi còn nhỏ đây!”
Ánh mắt kia ban đầu còn cảnh giác, sau lại rạng rỡ vui mừng.
Hắn ra lệnh cho thị vệ thả ta, rồi ghé sát mặt ta:
“Giờ muội vẫn còn thích ăn thịt kho chứ?”
Thấy ta gật đầu, Lục Quân Nghiêu liền dẫn ta vào tửu quán trong trấn, gọi cho ta ba bát thịt giò hầm mềm nhừ.
Hắn ngồi nhìn ta ăn từ đầu tới cuối, ta ăn càng nhiều, khóe môi hắn càng nở nụ cười.
Lục Quân Nghiêu bông đùa:
“Nếu năm xưa không phải muội thích ăn vụng thịt kho nhà ta, thì ta đã chẳng còn mạng sống đến hôm nay.”
Ấy là chuyện từ năm ta mười tuổi.
Tết Nguyên tiêu, tiết trời hanh khô, trên phố trải dài đèn hoa sáng rực như ban ngày, nhà ta và nhà họ Lục ở sát vách, đã hẹn cùng nhau đi xem hội đèn…
Trên đường đi, ta nghe Lục bá phụ nói, tiểu nhi tử nhà ông — Lục Quân Nghiêu — bị cảm lạnh, đang nghỉ ngơi ở nhà.
Ta vốn là một đứa ham ăn, mở miệng liền hỏi ngay chuyện đồ ăn:
“Lục Nhị ca ở nhà một mình, có đồ ăn thức uống gì không ạ?”
Lục bá mẫu cười đáp:
“Ta đã kho sẵn ít thịt giò, đặt ngay đầu giường cho nó, tất nhiên không để nó bị đói.”
Thịt giò kho của Lục bá mẫu còn ngon hơn cả ở Phàn lâu, mà cái gã Lục Quân Nghiêu ốm yếu ấy, chắc cũng không ăn hết nổi.
Thế là ta lén rẽ ngang đường, chui qua lỗ chó ở sân sau nhà họ Lục, một mạch chạy thẳng tới phòng ngủ của hắn.
Càng đến gần, ta càng ngửi thấy mùi khói…
Vừa rẽ qua hành lang, ta mới phát hiện phòng ngủ của Lục Quân Nghiêu đã bốc cháy, lửa l.i.ế.m lên rèm cửa, cháy lan cả ra ngoài cửa sổ.
Ta vừa hô cứu hỏa, vừa lao vào trong.
Khi ấy còn nhỏ, chưa hiểu hậu quả, chỉ nghĩ Lục Quân Nghiêu đang bệnh, không thể để hắn ở lại một mình.
Lửa chưa lớn lắm, ta đẩy cửa vào, thấy hắn từ mép giường ngã xuống đất, đang ho dữ dội.
Theo mẫu thân từ nhỏ, thân thể ta vốn khỏe hơn nhiều nữ tử khác, mà Lục Quân Nghiêu khi ấy lại bệnh tật triền miên, gầy như cây sào, nên ta vác hắn lên vai, tay kia bưng bát thịt giò, chạy vội ra tới sân ngoài.
Đợi đến khi đám cháy được dập tắt, Lục bá phụ, Lục bá mẫu trở về, thì ta cũng vừa ăn xong chỗ thịt giò.
Lục bá phụ cảm ơn ta hết lời, còn muốn báo đáp.
Riêng Lục Quân Nghiêu thì yếu ớt chỉ vào chiếc đĩa trống không:
“Muội ấy đã nhận lễ tạ ơn của con rồi.”
Lục bá mẫu liền trách hắn, bảo rằng nếu không có ta, hắn chắc chắn đã bị bỏng, chứ đừng nói một cái giò, dù là trăm cái, ngàn cái ta cũng xứng đáng được ăn.
Lục Quân Nghiêu vốn da trắng, lại vì cảm lạnh mà hai má ửng hồng, đôi mắt nhìn ta, dưới sắc hồng ấy càng ánh thêm một tầng đỏ thắm:
“Vậy ta sẽ mời muội ăn trăm phần, ngàn phần thịt giò kho.”
Ta cười hề hề:
“Lục Nhị ca, vậy ta phải ăn bao lâu mới hết được chừng ấy thịt đây?”