Tưởng phu nhân quả thật ngày càng bất mãn với tức phụ, vốn là một cô nương thông minh lanh lợi, vậy mà ánh mắt chỉ nhìn thấy ruộng một mẫu ba phân, thân thể không tốt, không hầu hạ công bà cũng chẳng ai trách nàng ta, ngay cả trước mặt Lão Thái gia cũng không chút hiếu thuận, hại bà làm bà mẫu phải chịu liên lụy.
*Ruộng một mẫu ba phần: Quan Canh Đài là nơi dành cho Hoàng đế thị sát việc cày cấy của các đại thần vào mùa xuân, phía nam trước Quan Canh Đài là cánh đồng mà các đại thần cày cấy, có diện tích một mẫu ba phân, sau này, cụm từ ‘một mẫu ba phân’ được người ta mở rộng nghĩa để chỉ khoanh đất nhỏ của riêng mình (tầm nhìn, kiến thức).
Ban đầu, ngay cả mẫu thân của Đại Bảo cũng không ở lại, người kia vốn là người hợp ý với nhi tử ta, chẳng qua là để đôi phu thê trẻ tuổi có thể an tâm sống tốt cuộc sống của mình đó sao? Giờ thì thế nào, chính nàng ta lại gây ra chuyện thiếp thất, muốn tốt cũng chẳng tốt được.
Những chuyện lớn nhỏ như vậy, lại không thể mạnh tay quản giáo, một khi thân thể không chịu nổi, không có lý cũng thành có lý, lại biến bà thành người bà mẫu không chấp nhận được ngời. Thái đại nhân nói đúng, có những người được cho ba phân thuốc màu liền muốn mở phường nhuộm, ban đầu không nên vì thương xót mà buông lỏng quy củ, cuối cùng lại tự hại chính mình. May mắn năm sau cả nhà thông gia hồi kinh, nữ nhi nhà mình thì để nhà họ tự dạy đi.
Thế nhưng, người đến trước cả Liễu gia lại là một vị đại phu do cung phái đến, nghe nói là Thái tử đặc biệt mời từ đất Thục về để chữa bệnh kinh niên cho Hoàng hậu, vì nể mặt biểu đệ nên đến bắt mạch cho đệ tức phụ.
Thiên ân mênh mông, Tưởng phu nhân không dám chậm trễ, cho đặt bình phong, đứng đợi phía sau.
Ước chừng hai khắc sau, sau khi thăm khám xong và thu dọn hòm thuốc, vị đại phu bước ra trước, Lưu ma ma đã chuẩn bị sẵn một bọc bạc dâng lên, sau khi vị đại phu liên tục nói " không dám" từ chối, Tưởng phu nhân nói: "Đa tạ cung phụng, đường sá xa xôi mà đến, tức phụ này của ta mang bệnh từ trong bụng mẫu thân, từ khi chào đời đã phải uống thuốc, mấy năm trước còn ổn, chỉ là gần đây không rời thuốc được, càng ngày càng tệ."
Vị đại phu này đã ngoài bảy mươi, bệnh nan y nào mà ông ấy chưa từng thấy, nhà ông ấy ở Xuyên Thục gần Vân Nam, không chỉ y thuật cao siêu, mà còn dùng độc dược rất thành thạo. Kỳ thực, thứ này nếu dùng tốt, đôi khi còn linh nghiệm hơn cả thuốc.
Vị thiếu nãi nãi của Thái gia này, vừa nhìn ông ấy đã biết mắc bệnh gì, vốn là người không thọ, may nhờ nhà giàu có, dùng thuốc quý nhân sâm để bồi bổ, đáng tiếc gần đây lại ăn phải thứ không nên ăn, gốc rễ càng thêm suy kiệt. Vị đại phu lắc đầu, nhưng không tiện nói thẳng rằng bệnh nhân chỉ còn sống được ba năm năm năm nữa.
Qua lời nói hàm ý, Tưởng phu nhân làm sao không nghe ra? Thật ra, khi ở Tây Bắc đã có cao tăng nói rằng Liễu Yên không phải là người có phúc phận trường thọ, khó qua tuổi ba mươi, cho nên Tưởng phu nhân đối với đứa nhi tức mà bà coi như nữ nhi, luôn có một chút lòng thương xót.
Bà thở dài một hồi, đành nhờ đại phu kê thuốc bồi bổ, "Tức phụ của ta là một người cố chấp, luôn muốn sinh một đứa con nối dõi cho nhà ta, năm ngoái lại nghe lời của vu y, chính là uống một phương thuốc đó mà hại thân."
Vấn đề này, đại phu đã rõ trong lòng, nhưng đó không phải là mấu chốt, truy tìm căn nguyên do thân thể quá kém, hơn nữa ông ấy còn có một câu không thể không nói: "Độc mang từ trong bụng mẫu thân mà ra, tích tụ nhiều năm ăn mòn gốc rễ, không phải là một chứng bệnh yếu ớt thông thường."
Cũng có những đứa trẻ vì cơ thể của mẫu thân suy nhược mà sinh ra thể chất yếu ớt, từ từ bồi bổ cũng có thể lớn lên khỏe mạnh. Trong cơ thể Liễu Yên vốn là độc, thành phần bệnh không nhiều, Tưởng phu nhân là lần đầu tiên nghe đến cách nói này, không khỏi hỏi kỹ càng, trong lòng thầm suy nghĩ, chưa từng nghe Lý phu nhân nói chuyện trúng độc, sao chuyện quan trọng như vậy trước khi thành thân lại không nhắc một lời, chẳng lẽ cố ý gạt Thái gia?
Hạt giống hoài nghi một khi đã gieo xuống, trong lòng Tưởng phu nhân liền không vui, chờ đến khi Liễu đại nhân thăng quan trở về kinh đô, nóng lòng gửi thư hỏi thăm Lý phu nhân.
Lý phu nhân vừa nhìn thấy chữ "độc" kia, trong lòng liền giật mình, nhưng lại nghĩ chuyện năm xưa đã sớm như gió thoảng qua không chút dấu vết, đoán rằng Tưởng phu nhân dù có tức giận cũng vẫn còn đường xoay chuyển, bao năm nay chưa từng có đại phu nào nói Liễu Yên bị trúng độc từ trong bụng mẫu thân, đâu ra một tên lang băm dám một mình thách thức nhiều vị đại phu cao thâm ở Tây Bắc như vậy, huống hồ y thuật vốn có nhiều cách nói khác nhau, đâu phải chuyện không đen tức là trắng.
Lý phu nhân suy nghĩ kỹ lưỡng, quyết định không thừa nhận, bà ta cũng không dám oán trách rằng Thái gia không nuôi dạy nữ nhi tốt, chỉ một mực nói rằng chắc Tưởng phu nhân đã bị một vị du y y thuật không tinh thông lừa gạt.
Thật ra, năm xưa chính bà ta đã tự mình dùng thuốc hãm hại thiếp thất, trước hết là để giảm bớt sự tin tưởng của Liễu lão gia đối với thiếp thất đó, sau đó lại bỏ thuốc vào thuốc dưỡng thai của thiếp thất.
Ai bảo những người đó cứ nhất định phải tranh giành với bà ta kia chứ? Đã tranh giành rồi còn dám đến trước mặt bà ta mà khoa trương sỉ nhục, đáng đời cho tiện nhân đó sinh ra một đứa con c.h.ế.t yểu toàn thân tím đen mà bị ghét bỏ, bà ta mới có cơ hội xử lý triệt để con ả, đó lại còn là một nam thai, nếu để nó bình an chào đời, thì còn có chỗ cho mẫu tử chính thất của bà ta hay sao? Lý phu nhân chỉ mừng rằng mình đã tiên hạ thủ vi cường.
Liễu lão gia đau buồn vì mất đi ái tử ái thiếp, suy sụp một thời gian dài, bà ta không dám lật lại chuyện năm xưa để gây thêm nghi ngờ, trước mặt Liễu đại nhân chỉ đành dùng những lời khác để lấp liếm: "Chúng ta cũng đâu có trách móc thông gia đâu, bệnh của Yên nhi trong lòng ta sớm đã biết, sao đột nhiên lại lôi chuyện trúng độc ra? Chẳng lẽ sợ chúng ta để bụng?”
Ý của Lý phu nhân chính là, hy vọng Liễu lão gia không đặt trọng tâm vào chuyện thai độc, chỉ đành nói xấu Thái gia có ý đồ đen tối, nhưng không ngờ chính câu nói này lại đánh trúng tử huyệt của Liễu đại nhân.
Ông ta còn chưa kịp nói với gia đình, vừa về đến đã được Thái lão đại nhân triệu kiến, trong lời nói của ông cụ đều có ý muốn cất nhắc ông ta, ông ta còn chưa kịp vui mừng, Thái lão đại nhân lại tỏ vẻ ông ta có thể đón nữ nhi về nhà tĩnh dưỡng.
Đây là lời gì chứ? Đâu có chuyện nữ nhi đã xuất giá lại bị mẫu gia đón về, đó chẳng phải là hưu thê sao? Đương nhiên là không thể đồng ý, nhưng ông ta lại không rõ mình đã đắc tội với Thái gia ở điểm nào, rốt cuộc là Thái lão đại nhân không hài lòng với chuyện riêng tư của tôn tử, hay là phu thê Thái Văn Thanh bất mãn với tức phụ? Ông ta mang theo sự hoang mang về nhà, rồi lại nghe được lời này từ thê tử.
Liễu đại nhân bỗng chốc như bị xối nước lên đầu, càng nhận định Thái gia nay đã là hoàng thân quốc thích, nữ tế lại là người được Thái tử tin tưởng nhất, công lao phò tá được ban thưởng đã nằm trong tầm tay, coi thường cái loại thân thích như ông ta rồi!
Nữ nhi của ông ta tuy yếu ớt bệnh tật, nhưng cũng đâu có cầm d.a.o kê vào cổ họ mà bắt cưới, giờ thì không cần nữa thì chê vướng bận, lại tìm những lý do không ra gì để đá văng Liễu gia bọn họ đi sao?
Liễu đại nhân thầm hận Thái gia tham phú phụ bần, nhưng cũng không muốn xé rách mặt như vậy, mất đi mối thông gia hiển hách này, đầu tiên làm tìm đến Thái đại nhân, giả vờ kể lại giao tình hai mươi năm làm quan cùng nhau ở Tây Bắc, những gian khổ cùng nhau thủ thành, uống vài chén rượu vào, cuối cùng vẫn không nhịn được sự phẫn uất mà chất vấn, châm chọc Thái đại nhân vài câu.