Gương mặt nàng bị ánh lửa chiếu rọi đỏ bừng, ánh mắt bập bùng, lúc sáng lúc tối.
Nàng nói, trong phủ đắc tội với người.
Ánh mắt nàng lảng tránh, cứ né tránh ánh nhìn của ta mãi.
Điệu bộ lấp lửng ngập ngừng ấy, ngược lại càng khiến người ta hiếu kỳ.
Sau khi bị ta truy hỏi mấy lần, Hồng Tú hít hít mũi, ngập ngừng nói: “Tô tỷ tỷ, tỷ nghe xong đừng giận nhé.”
Ta đúng là không giận.
Mà nghe xong rồi, chỉ thấy tức nghẹn trong lòng, tựa như có kẻ vừa trét một bãi phân chó trước cửa nhà ta vào đúng đêm trừ tịch.
Hồng Tú kể, Thôi Vọng Chi tìm một cô nương có dung mạo giống ta đến năm phần, nuôi dưỡng trong hậu viện, đối ngoại thì bảo là biểu muội từ xa đến thăm, kỳ thực lại vô cùng sủng ái trong âm thầm.
Hắn còn đặt cho nàng một cái tên.
Băng Ngọc.
Băng ngọc thừa lộ, men ngời sắc biếc.
Là để ám chỉ “Từ”.
Cô nương kia là một a hoàn rót rượu mà Thôi Vọng Chi vô tình gặp được khi đi mua vui ở hoa lâu.
Băng Ngọc ngỡ là trời cao thương xót, lại thêm tên ta trong phủ Thôi đã sớm thành điều cấm kỵ, chẳng ai dám nhắc đến. Nàng được Thôi Vọng Chi cưng chiều đến mức sinh ra kiêu căng, ngày thường liền tự nhận mình là Thiếu phu nhân tương lai của Thôi gia.
Về sau, một lần Thôi Vọng Chi uống say, lại gọi nàng bằng cái tên “Từ Nhi”.
Chỉ cần hỏi han đôi chút, nàng đã biết được về sự tồn tại của ta.
Trước cả Hồng Tú, nàng đã tìm cách đuổi đi không ít nha hoàn từng thân thiết với ta.
Băng Ngọc là người biết thời thế, nhân lúc Thôi Vọng Chi sủng ái, tận dụng lợi thế bản thân để sớm thanh trừ hết dấu tích ta từng để lại trong phủ Thôi.
Chỉ sợ một ngày kia, Thôi Vọng Chi nhìn thấy ai đó liền lại nhớ đến ta.
Vì không muốn kết thù với nhiều người, nàng còn âm thầm bồi thường cho các nha hoàn kia một ít ngân lượng.
Băng Ngọc mưu cầu cho bản thân, ta cũng chẳng phân định được thiện ác.
Nhưng chỉ cần nghĩ đến chuyện Thôi Vọng Chi khi đang hành lạc lại gọi tên ta, là trong bụng đã cuộn trào, dạ dày như bị lật tung đến ghê tởm.
Khóe môi ta căng chặt, nhẫn rồi lại nhẫn, cuối cùng cũng không buột miệng mắng to.
Tới cùng, chỉ có thể dài giọng thở than:
“Là ta liên lụy đến các muội.”
Hồng Tú xoa đầu Tiểu Hắc, dịu dàng an ủi:
“Từ tỷ, Thôi phủ ngày trước đối với tỷ ra sao, mấy tỷ muội chúng ta đều nhìn rõ cả.
“Trong phủ ấy, từ trên xuống dưới, chẳng ai đầu óc tỉnh táo, làm việc cho bọn họ chẳng bao giờ được lợi gì. Lần này có thể ra khỏi phủ sớm, lại nhằm lúc cuối năm, cũng là lúc thích hợp để tính toán tương lai.”
Ta bèn hỏi nàng định làm gì sau đó.
Hồng Tú ôm má, trong đáy mắt tràn đầy những viễn tưởng về ngày sau:
“Qua tết này, muội định rời khỏi huyện Thanh Hà.”
17
Nô tỳ có khế ước tuy không vào hạng tiện dân, nhưng sống dưới tay chủ tử, quả là ngày tháng không dễ gì trôi qua.
Hồng Tú tính đến nương nhờ tỷ tỷ ruột đã xuất giá vào đất Giang Nam.
Giang Nam vốn là vùng thích hợp làm ăn buôn bán, tỷ tỷ nàng ở đó mở một tiệm bánh kẹo, làm ăn ngày một phát đạt, hiện đang cần người thân thiết giúp một tay.
Hồng Tú chỉ ở lại với ta hai hôm, đến khi lên đường, ta lặng lẽ nhét vào tay nải của nàng một tờ ngân phiếu mười lượng bạc.
Mười lượng bạc, đối với nhà quyền quý chẳng qua chỉ là một bữa ăn, nhưng với dân thường như ta và Hồng Tú, cũng đã đủ chi dùng nửa năm.
Nhà nghèo đi đường xa, Hồng Tú trên đường tất lắm việc phải tiêu tiền.
Ngay sau gót chân tiễn nàng rời đi, huyện Thanh Hà lại đổ một trận tuyết lớn.
Tạ Vân Châu trở về rồi.
Sáng sớm ta thấy chàng, vận một thân bạch y, đứng giữa băng tuyết mênh mang, trông chẳng khác nào tiên nhân giáng thế, như thể chỉ cần tung tay là có thể bay lên trời.
Chàng còn mang về một tin tức.
Tháng Ba năm nay thi Xuân Vị, chàng chẳng bao lâu nữa sẽ phải lên đường vào kinh.
Trước Tết, sơn trưởng của Thanh Tùng thư viện đã viết thư tiến cử gửi tới Thiên Xu học cung trong kinh thành.
Ông rất xem trọng Tạ Vân Châu, hy vọng sơn trưởng của học cung thu nhận chàng làm môn sinh.
Thiên Xu học cung, chẳng phải là thư viện tầm thường, nơi ấy quy tụ những bậc đại nho đương triều làm giảng sư, môn sinh trong cung đều là con cháu danh môn thế gia chốn kinh thành.
Dân gian có câu:
“Cá chép trong học cung, biết chữ còn nhiều hơn dân thường.”
Tạ Vân Châu được vào học nơi ấy, cơ duyên, tài học, quý nhân trợ giúp — thiếu một điều cũng chẳng thể.
Đó là chuyện tốt.
Còn ta thì sao?
Chúng ta đã định ba tháng Ba thành thân, nếu chàng phải hồi kinh ứng thí, chẳng phải lại làm lỡ kỳ thành hôn?
Còn chưa thành thân, sáu lễ chưa trọn, nếu ta theo chàng vào kinh, chẳng may có kẻ nặc danh tố cáo chàng “vượt lễ”, ắt sẽ ảnh hưởng đến tiền đồ quan lộ.
Những chuyện ám muội giữa các sĩ tử, thủ đoạn ra tay tàn độc thế nào, ta sớm đã từng nghe.
Ta cắn môi, nói:
“Chàng cứ yên tâm lên đường, không cần bận lòng vì thiếp. Còn chuyện hôn sự, đợi sau khi xuân thí kết thúc rồi bàn lại cũng không muộn.”
Ta tin vào bản lĩnh của Tạ Vân Châu.
Ta tin, cũng hy vọng chàng có thể kim bảng đề danh.
Ta từng là thiên kim nhà quan, cũng đã thấy qua thế sự nhân tình, trong lòng hiểu rõ — nếu Tạ Vân Châu muốn thăng quan tiến chức, điều chàng thiếu… là một nhà vợ môn đăng hộ đối.
Nhà họ Thôi chướng mắt ta, chung quy vì ta xuất thân sa sút, chẳng giúp được Thôi Vọng Chi chút lực nào.
Tạ Vân Châu là người tốt, ta tuy chẳng rõ chàng bắt đầu thích ta từ khi nào, cũng chẳng biết chàng vì sao lại cầu hôn ta — nhưng tình cảm… sao sánh được với vinh hoa quyền thế?
Ta không muốn làm chậm bước chàng, càng không muốn một ngày nào đó, bị chính chàng nói rằng: Là nàng làm lỡ dở ta.